An ninh môi trường Biển Đông cần chính sách ngoại giao khoa học biển

PNO – Nhân sự kiện Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa dự phiên thảo luận cấp cao Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc về an ninh biển, phó giáo sư – tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi – Chủ tịch Hội Thiên nhiên và Môi trường biển, Ủy viên Thường vụ Hội Nghề cá Việt Nam – phân tích về những hành vi đe dọa đến an ninh môi trường Biển Đông của Trung Quốc.

Phó giáo sư - tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi
Phó giáo sư – tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi

Vi phạm nghĩa vụ bảo tồn, bảo vệ các hệ sinh thái

*Phóngviên: Trong vụ Philippines kiện Trung Quốc năm 2016, ngoài phán quyết bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò, bác bỏ cái mà Trung Quốc gọi là “vùng nước lịch sử”, Tòa Trọng tài quốc tế còn có phán quyết về hành vi gây hại cho môi trường biển. Xin ông nhắc lại những hành vi này?

Phó giáo sư – tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi: Chỉ riêng từ năm 2014 đến tháng 7/2016, Trung Quốc đã công khai, dồn dập tôn tạo, mở rộng hơn 1.370ha đảo nhân tạo từ bảy bãi cạn, rạn san hô mà Bắc Kinh chiếm đóng trái phép của ta ở quần đảo Trường Sa. Khoảng 160 – 200km2 rạn san hô ở đáy biển đã bị Trung Quốc phá hủy để nghiền thành cát xây đảo nhân tạo, hòng thực hiện ý đồ “quân sự hóa” ẩn danh “dân sự hóa” Biển Đông. Cần nói thêm rằng, cho dù Bắc Kinh có thể bỏ ra hàng tỷ USD, đào đắp hàng triệu mét khối cát để biến các bãi đá, rạn san hô thành các đảo nhân tạo thì họ cũng không thay đổi được “vị trí và bản chất pháp lý” của các bãi cạn, rạn san hô – thực thể tự nhiên vốn có theo quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Đáng nói là Bắc Kinh thực hiện hành vi sai trái này trong thời gian diễn ra vụ Philippines kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông (2013-2016) như một chiêu trò lợi dụng “sơ hở” và ngang nhiên thách thức luật pháp quốc tế. Theo phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế ngày 12/7/2016 về vụ kiện trên, Trung Quốc đã phá hủy vĩnh viễn môi trường các rạn san hô, vi phạm nghĩa vụ bảo tồn, bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sống của các loài đang suy giảm, bị đe dọa và bị hủy diệt ở vùng biển Trường Sa. Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các công ước quốc tế có liên quan, như UNCLOS 1982 (điều 60, 192, 193, 196 và điều 208 về ô nhiễm môi trường biển), Công ước về đa dạng sinh học (CBD); Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) và vi phạm điều 5, điều 6 trong Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) mà chính Trung Quốc đã cam kết.

Sự suy giảm đa dạng sinh học do các hành vi phi pháp của Trung Quốc sẽ dẫn đến những mối nguy hại như thế nào cho môi trường biển và đời sống con người, thưa tiến sĩ?

– Năm 2015, một nhà khoa học của Đại học Tổng hợp Philippines đã cho rằng, trong lúc vội vàng giành lấy sự kiểm soát Biển Đông, chính phủ và lãnh đạo quân đội Trung Quốc có vẻ như rất ít hoặc không hề quan tâm tới sự thật rằng, những rạn san hô, thảm cỏ biển và những hệ sinh thái biển nông ở Biển Đông đang bị phá hủy và bị chôn vùi một cách nhanh chóng. Hành vi xây dựng đảo nhân tạo và hủy hoại một diện tích lớn rạn san hô ở đáy biển quần đảo Trường Sa đã gây thiệt hại cho các dịch vụ hệ sinh thái rạn san hô ở đây với giá trị ước khoảng hơn 4 tỷ USD/năm, chưa kể gây thiệt hại khoảng hơn 500 triệu USD/năm đối với nghề cá của các nước trong khu vực, bao gồm cả nghề cá của Trung Quốc.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại phiên thảo luận cấp cao của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc - Ảnh: TTXVN
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại phiên thảo luận cấp cao của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc – Ảnh: TTXVN

Các hành vi trên của Trung Quốc còn “chia cắt” mối liên kết sinh thái giữa vùng biển quần đảo này với phần còn lại của Biển Đông và các vùng biển lân cận, khiến khả năng cung cấp dinh dưỡng, nguồn giống và nguồn lợi thủy sản từ vùng biển Trường Sa – trung tâm quan trọng nhất đối với nghề cá của các nước trong khu vực – đã, đang và sẽ bị sụt giảm. Năm 2016, một nhà khoa học Mỹ đã cảnh báo, đại ý rằng chúng ta đang tiến tới sự đổ vỡ lớn trong ngành thủy sản và thảm họa môi trường này sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người.

Ngoài ra, hoạt động khai thác hải sản mang tính hủy diệt của ngư dân Trung Quốc trong khu vực Biển Đông đã gây ra suy thoái hệ sinh thái và nguy cơ tuyệt chủng của một số loài như rùa biển, vài loài cá mập và các giống cá khác, đặc biệt là loài trai tai tượng khổng lồ ở Trường Sa và khu vực biển nam Biển Đông. Trữ lượng hải sản khu vực quần đảo Trường Sa và phía tây Biển Đông thuộc nước ta giảm khoảng 16% so với trước năm 2010. Số lượng rạn san hô và loài cá ở các vùng biển trên Biển Đông đã giảm từ 460 xuống 261 và danh sách loài trong tình trạng nguy cấp hiện bao gồm cả rùa xanh, trai tai tượng khổng lồ và đồi mồi. Một lần nữa, hòa bình và an ninh môi trường ở Biển Đông tiếp tục bị đe dọa, nghề cá thiếu bền vững nếu thiếu sự hợp tác và minh bạch thông tin từ các bên vi phạm.

Trung Quốc không thể đổi trắng thay đen

* Kinh tế biển đóng góp hơn một nửa GDP của nước ta. Việc Trung Quốc biến các thực thể ở Biển Đông thành các đảo nhân tạo và việc họ khai thác bừa bãi các rạn san hô ảnh hưởng như thế nào đến kinh tế biển của Việt Nam?

– Quần đảo Trường Sa là của Việt Nam, là một đơn vị cấp huyện của tỉnh Khánh Hòa. Vùng biển này cũng có hiệu suất đánh bắt thủy sản cao, là nguồn sinh kế quan trọng và ngư trường đánh bắt truyền thống, ưa thích của ngư dân nước ta. Việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo và khai thác bừa bãi các rạn san hô đồng nghĩa với việc an ninh môi trường và hòa bình bị đe dọa. Những hành vi đó đã ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, ở các mức độ khác nhau, đến kinh tế biển của nước ta. Một vấn đề gần như quy luật là, mất các hệ thống rạn san hô rộng lớn thì sẽ mất nguồn lợi thủy sản, dần dần mất nghề cá.

* Ông có nhắc đến khái niệm “ngoại giao khoa học biển”. Xin ông nói rõ hơn về giải pháp này đối với vấn đề an ninh môi trường ở Biển Đông?

– An ninh môi trường là loại hình an ninh phi truyền thống, là một bộ phận không thể tách rời của an ninh quốc gia. Trong bối cảnh phức tạp và khó lường ở Biển Đông, các đe dọa đối với an ninh môi trường biển rất lớn, có nguy cơ tác động mạnh và lâu dài đến kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị ở khu vực biển này. Hợp tác khoa học biển được xem là công cụ thúc đẩy không chỉ hoạt động bảo vệ môi trường, mà còn chia sẻ các giải pháp xây dựng lòng tin trong phối hợp giải quyết các vấn đề khác, trong đó có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Hợp tác khoa học biển là hợp tác giải quyết các vấn đề ít nhạy cảm như môi trường, đa dạng sinh học… đã được đưa vào điều 5 và 6 trong DOC. Hợp tác khoa học cung cấp cơ sở, bằng chứng cho các vấn đề chủ quyền, dự báo được tình hình, giúp định hình chính sách và tư vấn cho các chính phủ.
* Xin cảm ơn ông. 

(Tối 9/8, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã dự phiên thảo luận cấp cao Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc về an ninh biển. Đây cũng là lần đầu tiên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc tổ chức một cuộc họp chính thức về chủ đề an ninh biển trong bối cảnh có nhiều thách thức gia tăng đối với an ninh biển trên thế giới và các khu vực.

Trong bài phát biểu của mình tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc tối 9/8, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề cập đường lối đối ngoại của Việt Nam cũng như chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta về Biển Đông, trong đó có chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, đề nghị tăng cường hợp tác quốc tế để giải quyết các thách thức chung về an ninh biển, yêu cầu các quốc gia tôn trọng, tuân thủ luật pháp quốc tế – đặc biệt là UNCLOS 1982 – và bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của các quốc gia ven biển. )

(Theo VTV)

Theo Báo phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *